Giữa những đề tài nghiên cứu về các loại cây
trồng, cây dược liệu của Chương trình KH&CN phục vụ phát triển bền vững
vùng Tây Bắc (2013-2020), “Nghiên cứu
đánh giá và phát triển một số bài thuốc dân gian có tác dụng điều trị bệnh gan,
mật của các dân tộc vùng Tây Bắc” có một vị thế đặc biệt. Đây là đề tài duy
nhất mà các nhà nghiên cứu đi từ việc sưu tầm, tuyển chọn các bài thuốc dân
gian do các ông lang, bà lang ở nhiều địa phương vùng Tây Bắc áp dụng từ thế hệ
này sang thế hệ khác và soi tỏ dưới lăng kính khoa học để tìm ra cách tách chiết
những dược chất quý giá, đưa nó thành những sản phẩm dưới dạng bào chế hiện đại
và tiện lợi trong sử dụng. “Với chúng tôi, nghiên cứu về một bài thuốc dân gian
có nhiều điểm hết sức thú vị vì bài thuốc thường có rất nhiều vị khác nhau,
trong đó có từng đơn chất với những tác dụng khác nhau, nhưng khi kết hợp lại
thì có tác dụng hiệp đồng khác hẳn. Dù hiệu quả của bài thuốc đã được chứng
minh trong thực tế nhưng với những bằng chứng khoa học, chúng tôi đã có được
sản phẩm hiệu quả vượt trội so với sản phẩm từ bài thuốc ban đầu”, giáo sư Phạm
Hùng Việt (Phòng thí nghiệm Trọng điểm Công nghệ Phân tích phục vụ kiểm định
môi trường và an toàn thực phẩm, ĐHQGHN) cho biết.
Khai
thác và sàng lọc tri thức dân gian
Nghiên cứu khoa học là một quá trình dài đầy
thú vị và kết quả của nó thường không chỉ đáp ứng những nhu cầu mang tính thời
sự. Vì vậy, dù đề tài đã kết thúc gần hai năm và được hội đồng khoa học nghiệm
thu đánh giá tốt, giáo sư Phạm Hùng Việt vẫn còn cảm thấy sức gợi mở của nó:
“Chúng tôi nghĩ đến pha tiếp theo của đề tài để mình có thể nghiên cứu sâu hơn
về các cây thuốc dân gian trong những bài thuốc đã được chắt lọc. Trong cuộc
đời làm khoa học, tôi đã thực hiện nhiều bài toán trong những lĩnh vực khác
nhau nhưng đây là lần đầu tiên, chúng tôi nghiên cứu về các bài thuốc”.
Ông và cộng sự lại đến với những bài thuốc
lợi gan lợi mật một cách tình cờ. “Ban chủ nhiệm chương trình Tây Bắc gợi ý với
chúng tôi là có một đề xuất rất hay của tỉnh Lạng Sơn là phát triển các bài
thuốc lợi gan lợi mật sẵn có ở địa phương nhưng chưa có nhà nghiên cứu nào nhận
cả. Nguyên nhân là việc nghiên cứu về bài thuốc thì rất phức tạp so với nghiên
cứu về một loài cây nhất định”, ông giải thích. Với tâm thế của người sẵn sàng
đón nhận thử thách mới “miễn là nó không quá xa với phạm vi chuyên môn của
mình”, giáo sư chuyên ngành hóa phân tích Phạm Hùng Việt đồng ý ngay tắp lự vì
trong đầu ông đã hình dung ra “công việc mới rất phụ thuộc vào công cụ phân
tích, những việc liên quan đến phổ, cấu trúc, thành phần mà tôi tương đối có kinh
nghiệm”.
Do nhận biết được độ phức tạp của đề tài, ông
cho rằng một mình nhóm nghiên cứu mà ông phụ trách không thể giải quyết được
vấn đề: “Tôi nghĩ ngay nếu làm thì phải có sự hợp tác của các nhà nghiên cứu
liên quan đến phân loại thực vật, hóa học hợp chất thiên nhiên, tác dụng dược
lý, thử nghiệm độ an toàn trên động vật…”. Đó là điểm khởi đầu của việc hình
thành một nhóm liên ngành, gồm các nhà nghiên cứu thuộc ĐH Khoa học Tự nhiên,
Khoa Y-Dược ĐHQGHN (nay là trường đại học Y-Dược thuộc ĐHQGHN), Viện Hóa học
(Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam) và Trường đại học Dược HN.
Giữa những điểm mạnh cốt lõi của nhóm nghiên
cứu là mọi thành viên đều có kinh nghiệm, có kiến thức và thiết tha làm cái gì
đó mới mẻ, giáo sư Phạm Hùng Việt cho rằng điểm tựa thành công cho đề tài chính
là khâu phân loại thực vật, “chúng tôi có thể tách chiết được thành phần các
chất quan trọng, nghiên cứu tính chất dược lý hay làm bất cứ thứ gì khác nữa là
nhờ vào độ chính xác của phân loại thực vật”. Đó là công việc tuy không đến nỗi
“ngậm ngải tìm trầm” nhưng cũng khiến nhóm nghiên cứu của phó giáo sư Trần Văn
Ơn (Trường đại học Dược HN) phải đi một vòng cánh cung Tây Bắc “điều tra tám
tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Hà Giang, Yên Bái, Sơn La, Hòa
Bình và đặt các câu hỏi với 69 người thuộc 10 dân tộc, nhiều nhất là người
thuộc các dân tộc Tày, Thái, Dao, Mông…”.
Với kinh nghiệm tích lũy nhiều năm về thực
vật dân tộc học, phó giáo sư Trần Văn Ơn và cộng sự đã áp dụng phương pháp điều
tra dựa trên dịch tễ, tìm ra được 147 bài thuốc với 200 loại cây khác nhau đã
được sử dụng cho điều trị các chứng bệnh gan mật ở khu vực Tây Bắc. Cái khó của
công đoạn này là mỗi cây thuốc có nhiều tên gọi khác nhau theo từng dân tộc và
từng vùng nên nhóm nghiên cứu của anh phải lấy mẫu về xác định tên khoa học rồi
tìm những tài liệu thứ cấp để tìm hiểu xem những cây thảo dược đó đã được
nghiên cứu ở Việt Nam chưa…
Việc thực hiện những bước tìm hiểu tỉ mỉ như
thế kết hợp với sàng lọc trên cơ sở ba nhóm thông tin về số ca đã chữa, tỉ lệ
khỏi ước lượng và khả năng trồng trọt, anh đã chọn được năm bài thuốc. “Điều
thú vị là năm bài có 12 vị thuốc và trong 12 vị thuốc này, số vị thuốc hiện giờ
đã được nghiên cứu thì chưa nhiều, mới có giảo cổ lam và cà gai leo. Ngoài một
số nghiên cứu đã được thực hiện và đã có một vài sản phẩm thương mại còn nhiều
vị khác thì hầu như chưa được nghiên cứu. Đây là một cơ sở rất tốt cho vấn đề
nghiên cứu các cây dược liệu”, phó giáo sư Dương Hồng Anh (ĐH Khoa học Tự
nhiên), thư ký của đề tài, đã báo cáo như vậy trong buổi nghiệm thu cấp cơ sở
vào cuối năm 2019.
Tuy nhiên, để sàng lọc được những bài thuốc
hiệu quả nhất, nhóm nghiên cứu đã thực hiện thêm một bước thực nghiệm, đánh giá
khả năng bảo vệ gan trên chuột bị gây ngộ độc bằng paracetamol theo hai liều
khác nhau, với liều tương đương như liều sử dụng trên người. “Có thể thấy nếu
dựa vào chỉ số hoạt độ của hai enzyme AST và ALT trong huyết thanh của chuột
cũng như các quan sát vi phẫu thì chọn được bài thuốc do lương y Nguyễn Quyết
Thắng (Hội Y học cổ truyền Bắc Cạn) cung cấp gồm ba vị là bàn tay ma, giảo cổ
lam, cà gai leo và bài thuốc thứ hai từ Hà Giang gồm hai vị là trứng cuốc và
dứa dại”, kết luận mà giáo sư Nguyễn Thanh Hải, phó giáo sư Bùi Thanh Tùng và
các cộng sự tại trường đại học Y-Dược, ĐHQGHN đã rút ra.
Không
dễ chuyển hóa thành sản phẩm hiện đại
Con đường đưa một bài thuốc dân gian đã được
tin dùng trở thành một sản phẩm dưới dạng điều chế hiện đại, ví dụ như viên
nang hoặc viên nén, cao lỏng… trải qua rất nhiều bước gian nan, ngay cả khi các
nhà khoa học đã có trong tay rất nhiều công cụ tiên tiến. “Rất khó chuyển hóa
từ bài thuốc cổ truyền sang loại thuốc được bào chế như dạng Tây y, khâu khó
nhất là chuẩn hóa để cho nó đạt được độ ổn định, độ rã, độ chảy, đảm bảo được
khả năng giải phóng của thuốc…”, ThS Nghiêm Đức Trọng, một thành viên trong
nhóm nghiên cứu của phó giáo sư Trần Văn Ơn, trao đổi bên lề buổi họp hội đồng
nghiệm thu cấp cơ sở vào tháng 12/2019.
GS.
Phạm Hùng Việt.
Do hiểu được điều đó nên giáo sư Phạm Hùng
Việt đã mời giáo sư Oliver Schmitz (PTN Hóa học phân tích ứng dụng, trường đại
học Duisburg-Essen, CHLB Đức), một nhà khoa học đã có gần 10 năm kinh nghiệm
nghiên cứu về cách hiện đại hóa các bài thuốc Trung y ở Bắc Kinh, Trung Quốc,
tư vấn cho đề tài. Nhờ gợi ý của giáo sư Schmitz về phương pháp tách chiết mà
ông đã vỡ lẽ ra một vấn đề quan trọng: thông thường, trong tách chiết các hợp
chất thiên nhiên, bao giờ các nhà nghiên cứu cũng quen dùng các dung môi hữu cơ
rồi cho bay hơi để thu được hợp chất mong muốn chứ không dùng nước vì quá trình
tách chiết lâu hơn, tốn kém hơn. “Dùng dung môi hữu cơ có lợi là chiết ra được
chất mà nước không chiết được nhưng trong quá trình chiết như vậy có thể chiết
ra cả những động chất không mong muốn, đến khi thử trên chuột thì chuột chết”,
ông giải thích. “Trong khi đó từ muôn đời nay, dùng các thang thuốc dân gian,
người dân thường chỉ có một cách là đun thuốc cả ngày với nước”. Lời gợi ý
chiết xuất dược chất bằng nước khiến ông như bừng tỉnh: “Một lý thuyết rất giản
đơn như thế, dân gian đúc rút bao đời mà ông nghiên cứu nào cũng như ‘ngớ
ngẩn’, đến mình cũng không nghĩ ra. Ai cũng chỉ nghĩ theo hướng thuận theo
chuyên môn của mình mà không ngờ rằng làm như vậy có thể tách thêm cả độc tố”.
Việc tách chiết, nhận dạng các hợp chất thiên
nhiên không bao giờ đơn giản. Trong nghề nghiên cứu về hóa thực vật, ai cũng
hiểu, thông thường trong một cây dược liệu có hàng trăm, hàng nghìn chất khác
nhau, để nhận diện được chất mình cần thì phải có những công cụ chiết tách và
phân tích hiện đại. Do giáo sư Schmitz phát triển được nhiều công cụ mới nên
với sự tư vấn của ông, nhóm nghiên cứu cũng có được phương pháp mới để triển
khai đề tài, góp phần tích cực vào công bố quốc tế, tăng tính thuyết phục của
công trình. Khi kết thúc đề tài, ngoài các sản phẩm dạng một là viên nang, cao
khô sản xuất ở quy mô bán công nghiệp, sản phẩm dạng hai là gần 150 bài thuốc
sưu tầm còn có các sản phẩm khác là 3 bài báo quốc tế, 7 bài trong nước, 4 đăng
ký sở hữu trí tuệ mà người cung cấp bài thuốc thuộc hội Đông Y tỉnh Bắc Kạn
cũng có tên trong danh sách đồng tác tác giả.
Nhìn lại cả quá trình sàng lọc bài thuốc đến
tách chiết, xác định các hoạt chất quan trọng trong các cây bàn tay ma, trứng
cuốc, nụ đinh, lá gan (kế thừa thành quả nghiên cứu cà gai leo và giảo cổ lam
của giáo sư Phạm Thanh Kỳ - ĐH Dược HN) đến quy trình sản xuất cao, nghiên cứu
về tác dụng dược lý, độ an toàn và độ ổn định của viên nang, giáo sư Phạm Thanh
Kỳ, chủ tịch Hội đồng nghiệm thu đề tài cấp cơ sở, nhận xét “Bình thường nghiên
cứu cây thuốc, tách chiết để xem các chất trong đó, nếu thấy chất mới thì hay
và có ý nghĩa về mặt khoa học, còn nếu không mới nhưng là hoạt chất nổi tiếng
thì kết quả đó cũng có thể giúp làm sáng tỏ vấn đề do có chất đấy nên bài thuốc
dân gian đạt được hiệu quả chữa bệnh. Nhờ kết quả này mà các vị trong bài vẫn
được giữ nguyên nhưng phần đưa vào cơ thể không còn ‘thô’ như ban đầu nữa mà có
thể tiện lợi hơn cho người dùng sau này”.
Làm một đề tài phức tạp nhưng giáo sư Phạm
Hùng Việt và cộng sự cảm thấy vui vì chính mình “chiêm nghiệm” được kinh nghiệm
rút đúc của dân gian bao đời nay: “Bài thuốc dân gian gồm các vị ‘quân, thần,
tá, sứ’ nên có khi mình tách ra được một chất nguyên thủy không có hoạt tính
hoặc có thì rất yếu nhưng khi tổ hợp lại với vị khác thì lại có hoạt tính… Lần
đầu tiên, chúng tôi thấy được một trong những cái hay của tác dụng hiệp đồng
của các vị thuốc trong cùng một bài thuốc của ngành đông dược”.
Hiểu
biết mới và những kết quả bước đầu thôi thúc những người thực hiện đề tài bước
đi những bước xa hơn ở một vài pha nghiên cứu tiếp theo. “Chúng tôi mong muốn
thử nghiệm sử dụng thiết bị sắc kí lỏng hai chiều ghép nối với khối phổ phân
giải cao như LcxLC/QTOF-MS hoặc LCxLC/Ion Mobility MS mà PTN của GS. Oliver
Schmitz đã phát triển để nghiên cứu mối liên hệ giữa các cấu trúc giữa các chất
với hoạt tính về mặt sinh học, tác dụng hiệp đồng của các chất cùng trong hỗn
hợp, qua đó góp phần đem lại sản phẩm có giá trị cao hơn. Như thế phải làm rất
nhiều việc, nhất là đối với bài thuốc nhiều vị cần tối ưu hóa về thành phần,
liều lượng cũng như trong quy trình sản xuất để loại bỏ bớt tạp chất để có được
sản phẩm hiệu quả vượt trội hơn cũng như dễ dàng hơn cho người sử dụng”, giáo
sư Phạm Hùng Việt nói.