Thương
hiệu cà phê Meet More từng suýt bị “nẫng tay trên” khi xuất khẩu sang Hàn Quốc.
Ảnh: Khách hàng tham quan gian hàng của cà phê Meet More. Nguồn: vov
Trước khi câu chuyện về gạo ST25 bị chiếm
đoạt nhãn hiệu ở nước ngoài rộ lên trong thời gian gần đây như một “hồi chuông
cảnh báo” với các doanh nghiệp, ông Nguyễn Ngọc Luận, CEO Công ty Cà phê trái
cây Meet More - thương hiệu cà phê trái cây đầu tiên ở Việt Nam, đã ý thức được
tầm quan trọng của việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu khi bước chân sang thị trường
Hàn Quốc vào năm 2019. “Khi xuất khẩu lô hàng đầu tiên sang Hàn Quốc, tôi đã
nghĩ đến việc phải đăng ký rồi, nhưng chưa có bước chuẩn bị thôi, mình lo xuất
hàng sang trước. Sau khi xuất thành công lô hàng thứ hai thì chúng tôi mới bắt
đầu tiến hành nộp đơn xin bảo hộ tại nước sở tại”, ông Nguyễn Ngọc Luận chia sẻ
trong một hội thảo trực tuyến do Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH&CN) tổ chức vào
cuối tháng sáu vừa qua.
Tưởng chừng thời điểm nộp đơn không quá muộn,
“chỉ cách lúc xuất khẩu lô hàng đầu tiên khoảng 2-3 tháng”, song ông Nguyễn
Ngọc Luận hết sức bất ngờ khi cơ quan Cơ quan nhãn hiệu Hàn Quốc (KIPO) từ chối
đơn với lý do nhãn hiệu cà phê trái cây Meet More đã được một đơn vị khác nộp
đơn đăng ký trước. “Ban đầu, chúng tôi liên tục gửi email hỏi họ xem có bị nhầm
lẫn gì không, vì đây là thương hiệu mới”, ông cho biết. Sau khi thuê luật sư tư
vấn, ông mới biết một sự thật bất ngờ: người đã “nẫng tay trên” nhãn hiệu này
chính là công ty đang hợp tác với cà phê Meet More để phân phối sản phẩm tại
Hàn Quốc. “Khi đó, chúng tôi mới quay lại đàm phán với họ, mất mấy tháng trời
họ mới đồng ý rút đơn, khi đó chúng tôi mới lấy lại được thương hiệu của mình
và tiếp tục tiến hành bảo hộ”, ông Nguyễn Ngọc Luận chia sẻ.
Meet More không phải là ví dụ duy nhất về
việc dù ý thức được tầm quan trọng của SHTT song vẫn đánh mất nhãn hiệu ở nước
ngoài. Nghe qua có vẻ trớ trêu nhưng thực ra, nếu nhìn dưới góc độ của doanh
nghiệp xuất khẩu thì điều này cũng không có gì khó hiểu. Việc xuất khẩu hàng
hóa sang một thị trường mới vốn là một quá trình phức tạp và nhiều rủi ro nhưng
hầu hết doanh nghiệp Việt Nam “vẫn giữ thói quen phải đưa sản phẩm ra thị trường
ổn rồi thì lúc đó mới đăng ký bảo hộ, vì chúng ta thường quan niệm sản phẩm
phải sống trước đã”, luật sư Phạm Duy Khương ở công ty luật SB Law, nhận xét.
Chọn
thời điểm đăng ký bảo hộ
Xu hướng trên đã khiến không ít doanh nghiệp
“bỏ lỡ thời cơ” đăng ký bảo hộ nhãn hiệu của mình vào tay các bên khác. Cách
đây gần 20 năm, cà phê Trung Nguyên từng rơi vào tình huống tương tự: trong quá
trình làm việc với công ty Rice Field (Hoa Kỳ) để thảo luận về việc xuất khẩu
sản phẩm sang Hoa Kỳ, dù hai bên chưa đi đến thỏa thuận ký kết nào nhưng công
ty Rice Field đã nhanh chóng nộp đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cà phê Trung
Nguyên. Quá trình “đòi lại” nhãn hiệu không chỉ tốn nhiều thời gian, công sức
và tiền bạc mà còn ảnh hưởng đến kế hoạch mở rộng thị trường của cà phê Trung
Nguyên tại thị trường này.
“Vậy khi nào doanh nghiệp cần phải đăng ký
nhãn hiệu và nếu đăng ký thì sẽ như thế nào?”, luật sư Phạm Duy Khương đặt vấn
đề. Với kinh nghiệm nhiều năm trong việc giải quyết các vụ tranh chấp nhãn
hiệu, ông cho rằng “doanh nghiệp nên thay đổi thói quen”, phải đăng ký càng sớm
càng tốt. “Chúng tôi khuyên các doanh nghiệp trước khi đưa sản phẩm sang thị
trường nào, ngay trước khi đề xuất hợp tác với đối tác ở nước đó cũng phải tiến
hành đăng ký bảo hộ. Bởi vì rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài luôn tìm cách tận
dụng cơ hội để ‘lấy’ nhãn hiệu của doanh nghiệp đối tác thành của mình, đặc
biệt là ở các thị trường như Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan,...”, ông cho biết.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hầu hết doanh
nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, một số người vẫn phân vân liệu có nên bỏ
ra khoản chi phí đăng ký bảo hộ nhãn hiệu ở nước ngoài khi chưa biết lợi ích
thu được như thế nào? Trong trường hợp này, “doanh nghiệp nên xem xét việc đăng
ký bảo hộ nhãn hiệu dựa trên chiến lược phát triển kinh doanh, xuất khẩu của
mình”, PGS.TS. Hồ Thúy Ngọc ở trường ĐH Ngoại thương, đồng thời là trọng tài
viên ở Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) nhận xét. Cụ thể, “ngay khi
xác định chiến lược xuất khẩu thì doanh nghiệp phải làm việc với bộ phận tài
chính và pháp chế, bởi SHTT là lĩnh vực rất hẹp, chuyên sâu, do vậy không phải
người lãnh đạo/bộ phận phát triển thị trường,... nào cũng có đủ kiến thức về
SHTT. Sau khi các bên cùng ngồi lại với nhau, họ sẽ phân tích các thông tin:
với chiến lược thị trường như vậy thì doanh nghiệp phải làm gì để bảo vệ lợi
ích của mình; mất chi phí là bao nhiêu; với chi phí như vậy thì hiệu quả kinh
tế mang lại đến đâu,... Một điều quan trọng là bộ phận pháp chế phải chỉ ra cho
lãnh đạo doanh nghiệp những rủi ro phải đối mặt khi chấp nhận không thực hiện
khâu bảo vệ quyền SHTT tại thị trường tiềm năng. Khi có đầy đủ các dữ liệu như
vậy, tôi tin rằng ban lãnh đạo doanh nghiệp sẽ có quyết định đúng đắn xem nên
làm gì”.
Để tiết kiệm thời gian và chi phí, PGS.TS Hồ
Thúy Ngọc cũng khuyến nghị các doanh nghiệp nên tìm đến sự hỗ trợ của các
chuyên gia trong lĩnh vực này ở Việt Nam. “Nếu doanh nghiệp tự mày mò làm thì
chắc sẽ tốn kém chi phí hơn rất nhiều so với sử dụng những chủ thể chuyên
nghiệp như luật sư hoặc người tư vấn. Bên cạnh đó, nếu nhờ đến các công ty luật
nước ngoài thì họ sẽ đặt theo giá quốc tế ở mức ‘trên trời’, khó có thể phù hợp
với ngân sách các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam. Trong khi đó, tôi thấy
năng lực của các công ty luật cũng như cơ quan nhà nước Việt Nam trong việc hỗ
trợ doanh nghiệp đăng ký bảo hộ tài sản trí tuệ ở nước ngoài rất tốt. Do vậy,
tôi có một lời khuyên là ‘người Việt dùng hàng Việt’, như vậy, việc hỗ trợ
doanh nghiệp sẽ được đầy đủ nhất có thể”, bà phân tích.
Theo
dõi việc sử dụng nhãn hiệu
Việc sớm đăng ký bảo hộ nhãn hiệu sẽ giúp
doanh nghiệp yên tâm khi bước ra thị trường - điều này đúng, nhưng chưa đủ. Do
sự khác biệt về quy định SHTT ở các nước, “đăng ký nhãn hiệu chỉ là bước đầu
tiên để xác định quyền của doanh nghiệp thôi nhưng không phải là tất cả, không
có gì bảo đảm rằng mình đăng ký nhãn hiệu thành công ở nước ngoài là không xâm
phạm quyền của bên khác đâu”, luật sư Phạm Duy Khương cảnh báo. Bởi lẽ, hệ
thống pháp luật về đăng ký bảo hộ nhãn hiệu trên thế giới hiện nay chia làm hai
nhánh: một bên theo nguyên tắc nộp đơn đầu tiên (first to file), ưu tiên cho
người nộp đơn đăng ký bảo hộ sớm nhất, phần lớn các quốc gia trên thế giới, bao
gồm Việt Nam đều theo nguyên tắc này. Trong khi đó, một số quốc gia khác như Hoa
Kỳ, Úc, Singapore,... lại bảo hộ nhãn hiệu theo nguyên tắc sử dụng trước (first
to use) - quyền sở hữu nhãn hiệu sẽ thuộc về chủ thể đầu tiên sử dụng nhãn
hiệu. Điều này có thể dẫn đến trường hợp “giả sử chúng ta nộp đơn đăng ký nhãn
hiệu tại Hoa Kỳ, một đơn vị khác ở đó đã đã sử dụng nhãn hiệu đó trong thực tế
trước khi chúng ta kịp đưa sản phẩm sang thì chưa chắc chúng ta đã thắng họ
đâu”.
Do vậy, để tránh rủi ro, doanh nghiệp phải
cần phải “chăm sóc” nhãn hiệu ngay cả trước và sau khi đăng ký bảo hộ. “Chúng
tôi luôn khuyến cáo doanh nghiệp ngoài việc xác lập quyền ra, phải chủ động
theo dõi pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu tại thị trường đó như thế nào. Nếu ở
những quốc gia theo nguyên tắc ‘first to use’, trước khi đưa sản phẩm vào thị
trường hoặc sau khi đăng ký nhãn hiệu thành công, doanh nghiệp phải có bước
khảo sát thị trường một cách nghiêm túc để nghiên cứu sự tồn tại của nhãn hiệu
đó trên thị trường dựa trên cơ sở thực tế sử dụng chứ không chỉ dựa trên cơ sở
đơn đăng ký”, luật sư Phạm Duy Khương phân tích.
Ngoài mục đích bảo vệ nhãn hiệu ở những quốc
gia theo nguyên tắc “first to use”, việc theo dõi và thu thập các bằng chứng
liên quan đến việc sử dụng nhãn hiệu còn là yếu tố quan trọng để tránh bị bên
khác “chơi xấu” trong bối cảnh cạnh tranh như hiện nay. Nếu trường hợp cà phê
trái cây Meet More và cà phê Trung Nguyên ở trên bị đối tác “lấy mất” nhãn hiệu
do chưa kịp đăng ký thì có những trường hợp như Công ty Xuất khẩu Zon Beyond
(Việt Nam) - đã đăng ký bảo hộ nhưng vẫn đối mặt với nguy cơ mất nhãn hiệu.
“Cách đây hơn một năm, chúng tôi có hợp tác với một công ty khởi nghiệp Việt
Nam để phân phối một loại sản phẩm nông sản của họ sang thị trường Hoa Kỳ. Theo
thỏa thuận, chúng tôi sẽ đầu tư toàn bộ chi phí đăng ký nhãn hiệu, xây dựng
nhãn hàng đó tại Hoa Kỳ và là chủ sở hữu nhãn hiệu tại Hoa Kỳ. Chúng tôi bán
hàng trên kênh Amazon, còn cho phép đối tác sử dụng nhãn hiệu đó để bán hàng
trên các kênh còn lại, sau một năm cả hai bên phát triển khá tốt. Tuy nhiên, họ
bỗng dưng đòi mình trả lại nhãn hiệu đấy cho họ, họ thuê luật sư gửi email nói
mình không trung thực trong kinh doanh, cố tình đăng ký nhãn hiệu mà không cho
họ biết”, bà Jessica Quang, Tổng Giám đốc của Công ty Zon Beyond kể lại trường
hợp mà mình gặp phải.
Mặc
dù nhận thấy “lỗi của mình là trước đây không có hợp đồng rõ ràng” - do phía
đối tác trì hoãn, song cuối cùng, công ty Zon Beyond vẫn giữ được quyền sở hữu
nhãn hiệu do “đã cẩn thận lưu lại bằng chứng trong các cuộc nói chuyện với họ
về việc họ đồng ý cho bên mình đứng tên đăng ký nhãn hiệu đó tại Hoa Kỳ, nhờ đó
mình mới thắng được vụ này”, bà Jessica Quang cho biết. Việc thu thập đầy đủ
các bằng chứng cũng giúp họ nhận được sự hỗ trợ từ nền tảng thương mại điện tử
Amazon: “Trong quá trình đó, Amazon Global Selling cũng đã giúp đỡ Zon Beyond
rất nhiều, các nền tảng thương mại điện tử luôn tìm cách bảo vệ các doanh
nghiệp làm ăn chân chính trên thị trường. Vì vậy khi gặp bất kỳ vấn đề gì,
chúng ta cần cung cấp các bằng chứng cho nền tảng thương mại này để họ kịp thời
can thiệp”, PGS.TS Lê Thị Thu Hà, Giám đốc Trung tâm sáng tạo và ươm tạo, ĐH
Ngoại thương cho biết.